Sự xuất hiện xuyên thủng
Màng bị xuyên thủng là kết quả sự tràn ra của sản phẩm bên trong bao bì hoặc sự xâm nhập của oxy. Yếu tố xuyên thủng được phân loại thành:
- Nhiệt độ hàn dán thấp: Nhiệt độ hàn dán không đủ ở phần đáy túi , nơi niêm phong sản phẩm và có 4 lớp màng sẽ dẫn đến hiện tượng “Pinholding”.
- Hiện tượng xuyên thủng và uốn: Các góc nhọn của các túi thành phẩm có khả năng xuyên thủng qua các túi khác khi tiếp xúc trong quá trình vận chuyển và phân phối. Dẫn đến các lỗ kim khi bị gấp ngẫu nhiên. Ngoài ra, một phần túi bị gấp ngẫu nhiên có thể là kết quả của sự xuyên thủng.
Phát hiện xuyên thủng
Mặc dù các phương pháp phát hiện xuyên thủng bao gồm truyền khí và phóng tĩnh điện, một số phương pháp đơn giản được giải thích như sau:
- Mực đỏ dựa trên dung môi nước: giấy thấm (chẳng hạn như giấy lọc) được đặt dưới một tấm màng phẳng để kiểm tra. Mực in đỏ sẽ được đặt lên trên bề mặt của màng cần test. Mực sẽ thấm qua nếu trong trường hợp màng film phẳng có lỗ thủng. Phương pháp này hữu ý trong việc xác định có lỗ thủng trên bề mặt màng phẳng.
- Methylene xanh: Chuẩn bị 100 ml thuốc thử, trộn với 0.4g methylene xanh trong nước có chứa 10 ml cồn. Thuốc thử có thể được sử dụng tương tự như phương pháp sử dụng mực nước màu đỏ.
- Chất hoạt động bề mặt thấm thấu: Dung dịch màu chứa 1% chất tạo màu cơ bản (xanh methylene,…) và 1% chất hoạt động bề mặt thẩm thấu (sodium dioctyl sulfosuccinate,…) hữu ích để phát hiện các lỗ thủng trong các bận phận của túi kín. Ngoài ra dung dịch màu như vậy có thể được sử dụng để phát hiện những lỗ thủng trên bề mặt màng bằng phẳng bằng phương pháp tương tự như đã để cập ở trên đối với bút mực dựa trên nước là dung môi.
Đánh giá khả năng kháng xuyên thủng của bao bì
Hiện nay để đánh giá khả năng kháng xuyên thủng của bao bì áp dụng nhiều phương pháp khác nhau. Gần đây, phương pháp thử Gelboflex là phương pháp được áp dụng thường xuyên nhất và được giải thích (bên dưới). Phương pháp thử Gelboflex được coi là phát hiện xuyên thủng do uốn cong.
Phương pháp Gelboflex
Thử nghiệm Gelboflex là phương pháp được quy định trong tiêu chuẩn quân sự Hoa Kỳ “MIL B131 (Bao bì chống ẩm linh hoạt) “ và “ASTM-E-392-74.” Một mẫu màng được cuộn và siết chặt xung quanh một tấm tròn, đó là một tấm tròn cố định (A) và một tấm di dộng có thể xoay (B).
Ban đầu tấm B chuyển động về phía tấm A một khoảng cách là 89mm từ điểm bắt đầu bằng 1 2/9 phép quay (440’). Kế tiếp, tấm B chuyển động về phía A đi qua quãng đường 64mm mà không quay, dẫn đến tổng hành trình là 153mm.
Tiếp theo, B đảo ngược và quay trở lại điểm xuất phát. Hành trình của B đến A và quay lại B được xem như là một chu kỳ uốn cong. Một cách thiết lập khác chính là quá trình B đi qua khoảng cách là 83mm với 1 1/9 phép quay (400’) và quay trở lại có thể được chọn.
Trong thử nghiệm Gelboflex B đi 1 hành trình đến A và quay trở lại 40 lần trên 1 phút. Tuy nhiên, tùy theo loại vật liệu được kiểm tra, thì số lượng các lần hành trình có thể thay đổi trong 1 phút.
Sau khi thử nghiệm, mẫu được lấy ra khỏi thiết bị test và kiểm tra bất kỳ lỗ thủng nào trên bề mặt bằng các phương pháp như đã nêu ở trên.)
Màng bao bì kháng xuyên thủng
Tính linh hoạt của màng ảnh hưởng đến tần số lỗ kim và tăng lên khi nhiệt độ môi trường cao hơn. Ngoài ra, trong trường hợp các loại vật liệu màng giống nhau, màng có độ dày thấp hơn thì có tính linh hoạt cao hơn.
Màng | Độ dày | Phương pháp Gelboflex
Chỉ số kháng xuyên thủng |
Lực xuyên thủng
kgf |
CNY | 30 | 0 | 0.6 |
PA | 15 | 0 | 1.0 |
PET | 15 | 30 | 0.6 |
OPP | 25 | 5 | 0.7 |
Polycarbonate | 50 | 50 | 1.2 |
LDPE | 30 | 0 | 0.2 |
EVOH
(Ethylene: 38%) |
25 | 17 | 0.5 |
- Điều kiện thử nghiệm của phương pháp Gelboflex: 23 , 65% RH, 100 lần
- Điều kiện của Lực xuyên thủng: Đường kính lực 1.6 mm
Vận tốc: 100 mm/min. 23 , 65% RH
Lưu ý:
- Phương pháp kiểm tra xuyên thủng do uốn cong được tiêu chuẩn hóa trong JAS ( Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản )vào năm 1975.
- Kiểm tra độ bền xuyên thủng cho túi vặn được quy định theo Thông Tư No.370 của Bộ Phúc Lợi.
** Kiểm tra độ bền đâm xuyên: (Thông tư No.370)
Bề mặt mẫu cố định sẽ được đâm xuyên bằng kim bán nguyệt với đường kính 1mm với bán kính đầu là 0.5mm với vận tốc 50 ± 5 mm/phút. Kết quả chính là tải trọng tối đa thực tế khi đầu kim xuyên qua màng được đo.
Trích: Câu hỏi 100